Hướng dẫn làm bài phân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư sẽ là một gợi ý hay và vô cùng đặc sắc cho các bạn học sinh. Các bài văn mẫu sẽ có các luận điểm cụ thể và rõ ràng nhất cho các em tham khảo và học hỏi. Đừng bỏ qua.
Phân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư lớp 10cũng được đánh giá là một bài học hay và quan trọng trong chương trình học. Chú ý phân tích bài thơ theo câu thơ, phân chia ý rõ ràng và hợp lí, viết bằng những cảm nhận của mình. Sau đây sẽ là bài phân tích mẫu để các bạn tham khảo trước khi viết Các em hãy lưu lại bài học này để làm bài tốt hơn các em nhé!
Phân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư – Bài làm 1
Tác giả Mãn Giác thiền sư (1052 – 1096) tên là Lí Trường, sinh thời được Thái hậu và vua rất trọng dụng. Bài thơ “Cáo tật thị chúng” (nhan đề do người đời sau đặt) là một bài kệ.Kệ là một thể văn của Phật giáo dùng để truyền bá giáo lí Phật pháp. Và bài kệ được viết bằng văn vần, nhiều bài có giá trị văn chương như các bài thơ. Đọc bài thơ “Cáo tật thị chúng” được xem chính là một triết lí phật giáo nhưng cũng là một quan niệm nhân sinh. Đọc bài thơ này cũng đã thể hiện cảm giác đang tiếc nuối thời gian. Khi thời gian trôi đi cho đến tuổi già thì con người không thể nào sống vô nghĩa. Thêm với đó thì với lòng yêu đời cũng đã có một cái nhìn vô cùng lạc quan về cuộc sống.
Người đọc cũng cảm nhận thấy được với bốn câu thơ đầu nói lên quy luật hoá sinh của tự nhiên, của con người, của hoa cũng như con người không bao giờ đứng yên, bất biến. Sự sống luôn là một vòng quay luân hồi là như vậy. Và nếu đảo ngược vị trí câu thơ thứ hai lên đầu thì mặc dù cũng cứ vẫn nói lên được quy luật tuần hoá biến đổi nhưng đó sẽ là nhìn sự vận động theo quy luật xuân tới để xuân qua, hoa tươi để hoa rụng và chứ không theo quy luật sinh trưởng phát triển tự nhiên (xuân qua rồi xuân tới, hoa rụng rồi hoa tươi).
Đến với câu ba và câu bốn nói lên quy luật của đời người – quy luật tự nhiên đó là: sinh, lão, bệnh, tử theo quan niệm của đạo Phật. Chính với con người cùng với thời gian trôi thì tuổi trẻ sẽ qua đi và tuổi già ắt đến. Thế rồi khi tuổi già đến trên đầu mà thời gian thì không ngừng trôi chảy thế rồi đứng trước mắt việc đi mãi. Có lẽ chính vì thế cuộc đời con người trong khoảnh khắc có khác gì ảo ảnh. Hai câu thơ có chút bâng khuâng nuối tiếc vì thời gian của vũ trụ thì vô thuỷ vô chung còn thời gian của đời người thì ngắn ngủi.
Người đọc cũng sẽ nhận thấy được đối hai câu thơ cuối, tác giả mượn việc miêu tả thiên nhiên mà nói đến một quan niệm triết lí trong Phật giáo. Thế rồi khi con người đã giác ngộ đạo, luôn luôn cũng sẽ hiểu được chân lí và quy luật thì có sức mạnh lớn lao. Tất cả dường như cũng vượt lên trên cả lẽ sinh diệt thông thường. Thiền sư cũng sẽ đắc đạo trở về với bản thể vĩnh hằng, không sinh, không diệt như nhành mai kia cứ tươi bất kể xuân tàn. Thế rồi cũng cứ theo cách giải thích này nội dung ý tức của hai câu thơ cuối không hề có chút gì mâu thuẫn với nhau.
Đọc bài thơ thể hiện rất rõ lòng yêu đời với cái nhìn lạc quan của nhà thơ. Niềm yêu đời, niềm lạc quan tươi sáng ấy được thể hiện qua cách nói khẳng định, thông qua các hình tượng thiên nhiên mang vẻ đẹp tươi tắn, gợi lên sự cảm nhận về sự sống sinh sôi và bất diệt. Thế rồi quy luật của cuộc đời là sinh – tử – sinh nhưng bài thơ mở đầu bằng “xuân tàn” và kết thúc bằng “một nhành mai” tươi. Thế rồi đó cũng chính là một cách nhìn lạc quan.
Người đọc cũng sẽ nhận thấy được bài kệ được viết khi nhà thơ đau bệnh nhưng nó vẫn toát lên sự bình thản yêu đời, xuất phát từ một thể trạng tinh thần khoẻ mạnh, đầy bản lĩnh, đạt đến độ tự tại ung dung.
Thế rồi chính trong quan niệm của người xưa, hoa mai là loài hoa chịu được cái giá rét của mùa đông. Chính trong sương tuyết lạnh, mai vẫn nở hoa, báo hiệu cho mùa xuân đến. Ngắm nhìn bông hoa mai tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, thử thách, gian nan. Rồi hình tượng hoa mai vì thế tượng trưng cho sức sống bất diệt của con người.
Phân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư
Phân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư – Bài làm 2
Văn học thời Lí- Trần, bên cạnh sự phong phú của những tác phẩm viết về hào khí Đông A, về tình yêu nước và tinh thân dân tộc của các vị tướng và đấng minh quân mà còn có một mảng thơ của những vị thiền sư chiêm nghiệm về con người và cuộc đời.Có thể kể đến nhà thơ- nhà thiền sư Mãn Giác với bài thơ nổi tiếng: “Cáo tật thị chúng” (Cáo bệnh, bảo mọi người).
Nguyên văn chữ Hán của bài thơ:
“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
Những năm 1009- 1225, vào thời Lí, nước ta là một nước phát triển, phồn thịnh. Cuộc sống nhân dân đủ đầy, no ấm. Đạo Phật trở thành quốc giáo, những nhà sư đều có một vị trí trong xã hội và triều đình. Họ đều là những con người đức trọng, tài cao, giỏi thơ văn, tên tuổi sáng ngời sử sách. Mãn Giác Thiền sư là một trong những vị thiền sư thế. Bài “Cáo tật thị chúng” (Có bệnh bảo mọi người) được ông viết trước lúc qua đời. Tác phẩm viết theo thể kệ- do các nhà sư làm để tóm tắt giáo lí đạo Phật hoặc tuyên truyền những điều tâm đắc. Vì thế, những bài kệ thường hàm chứa triết lí đạo Phật cao sâu. Nhưng ở đây, “Cáo tật thị chúng” lại cho chúng ta cảm giác tươi mát, đầy thi vị.
Hai câu đầu đã diễn tả quy luật tự nhiên của cuộc sống:
“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.”
(Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa nở.)
Hai câu đầu nói lên sự tuần hoàn của 4 mùa, tuần hoàn luân hồi của tạo hóa. Từ “xuân, hoa” được lặp lại diễn tả quy luật phổ biến: mỗi độ xuân về, trăm hoa nở (bách hoa khai) đua sắc khoe hương. Hình ảnh “bách hoa khai “ (trăm hoa cười) tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ đang nảy nở. Khi mùa xuân trôi qua, “bách hoa lạc” (trăm hoa rụng) theo quy luật của tự nhiên. Hai câu thơ tám chữ mà chứa đựng màu sắc triết lí, khái quát quy có tính muôn thuở của thiên nhiên cũng như cuộc đời: thiên địa tuần hoàn, hay như cách nói của nhà Phật: cuộc đời này vô thường, con người ta sống trong kiếp luân hồi. Nhưng cái hay của Mãn Giác còn là cách nói: xuân đi rồi xuân lại đến, hoa tàn rồi một ngày hoa lại nở. Cuộc sống luôn hướng về phía tươi đẹp và sự sống là bất diệt, luôn tươi ròng sự sống.
Từ chuyện thiên nhiên tạo hóa, hai câu tiếp theo, Mãn Giác nói về chuyện người, chuyện đời:
“Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.”
(Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi)
Cuộc sống thiên biến vạn hóa, chuyện mới đây thôi đã trở thành quá khứ, như “trước mắt, việc đi mãi”. Cũng như vậy, con người cũng không nằm ngoài quy luật ấy, cũng phải trải qua “sinh, lão, bệnh, tử”. Nhưng khác với thiên nhiên còn tuần hoàn, kiếp sống con người không luân hồi mà theo thời gian, sẽ đi về phía hủy diệt. Thủ pháp đối lập: hoa tươi, hoa nở- trên đầu già đến rồi đã thể hiện ý thức của Mãn Giác về sự hữu hạn của đời người trước sự vô thủy vô chung của thời gian. Câu thơ nói về sự hữu hạn đời người, về cái quy luật “bệnh, tử” mà cứ nhẹ tênh. Người thiền sư ấy đứng trước cái chết, đón nhận nó như một quy luật tất yếu, một cách nhẹ nhàng và chủ động. Đó chính là tâm thế của những con người hiểu thấu sự đời.
Để rồi, khi hai câu thơ cuối bật ra, chính là niềm tin, sự lạc quan của con người:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
(Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước, một cành mai).
Thiên địa tuần hoàn, đời người ngắn ngủi:
“Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”
Nhưng không phải vì thế mà con người bi quan: Hai tiếng “mạc vị ” (đừng tưởng) như một lời nhắc nhẹ nhàng mà thấm thía. Bài kệ kết cấu theo kiểu liên hoàn, sử dụng thủ pháp tương phản: mở đầu bằng “hoa rụng hết ” nhưng kết thúc lại có “một cành mai ” nở ra. “Nhất chi mai ” (một cành mai) là một thi liệu thường được sử dụng trong thơ cổ. Đó là biểu tượng của tinh thần kiên trinh không đổi, không hùa theo thói đời. Khác với các loài hoa khác, hoa mai chống chọi và thích nghi được trong thời tiết khắc nghiệt. Ở đây, nhành mai buổi xuân tàn là một hoán dụ nghệ thuật. Lấy hoa để nói mình, thấy mình ở trong hoa: cuộc đời là vô thường nhưng con người vẫn có thể khắc phục đi lên như nhành mai vẫn nở bất chấp quy luật của tự nhiên, để là một bông hoa duy nhất, rực rỡ và đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Câu thơ tràn đầy niềm tin, niềm lạc quan của một thái độ bình thản, một nhân cách cao đẹp đứng trước những quy luật vạn vật. Bài kệ được khép lại bằng hai câu tuyệt cú mà xưa nay được truyền tụng như một vần thơ đẹp trong bài cổ thi.
Bài kệ “Cáo tật thị chúng ” không chỉ là những chiêm nghiệm của một con người tiến gần tới cõi hạn nhìn về cuộc sống và đời người mà còn là một cái nhìn lạc quan, là thái độ vươn lên sống có ích. Đó mới thấy được một cốt cách và tâm hồn của vị Thiền sư đức trọng tài cao. Câu thơ thấm nhuần tư tưởng Phật giáo mà không hề khô khan, triết lí cao siêu được trang phục bằng ngôn từ giản dị mà chính xác, giàu hình tượng và cảm xúc làm thu phục lòng người.
Bài kệ đã đi được hành trình gần một thiên niên kỉ, gần một ngàn mùa hoa tàn, xuân đến nhưng vẫn còn nguyên giá trị và tính triết lí của nó. “Cáo tật thị chúng”- bài cổ thi còn khai minh cho người đọc nhiều thế hệ nữa.
Phân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư – Bài làm 3
Về thời nhà Lí (1009 – 1225), Thăng Long trở thành kinh đô nước Đại Việt. Sau chiến thắng sông Cầu – Như Nguyệt (1076), nền độc lập của Tổ quốc ta được củng cố, ý thức dân tộc phát triển mạnh mẽ.Việc học hành được mở mang, Kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển khá phồn thịnh. Đạo Phật trở thành quốc giáo. Việc xây chùa, đúc chuông, tạc tượng, in kinh Phật diễn ra sôi nổi khắp nơi. Nhiều vị Thiền sư được triều đình trọng vọng. Họ là những con người lỗi lạc, đức trọng, tài cao, giỏi thơ văn, tên tuổi sáng ngời sử sách.
Trong số đó, Mãn Giác Thiền sư (1052 – 1096) là một vị cao tăng mang tâm hồn thi sĩ tuyệt đẹp. Bài “Có bệnh bảo mọi người” (Cáo tật thị chúng) được vị Thiền sư đọc cho các đệ tử nghe khi ông lâm bệnh trọng, trước lúc qua đời. Vốn là một bài kệ (kinh kệ) hàm chứa triết lí đạo Phật cao sâu, nhưng lại tươi mát, gợi cảm, đầy thi vị. Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch thơ:
“Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi.
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết;
Đêm qua, sân trước, một cành mai”
(Ngô Tất Tố dịch)
Bài kệ – thơ đã nói lên quy luật của sự sống và thiên nhiên, biểu lộ tâm thế của nhà sư trước quy luật sinh, tử ở cõi nhân gian, cái tịch diệt và cái vĩnh hằng trong vũ trụ. “Có bệnh bảo mọi người” gồm 6 câu, cứ 2 câu kết thành một liên đăng đối, hài hoà để lại nhiều ấn tượng thú vị. Hai câu đầu nói lên sự tuần hoàn của 4 mùa, tiêu biểu là sự chuyển vần của mùa xuân. Mỗi độ xuân về, trăm hoa nở (bách hoa khai) đua sắc khoe hương.
Hình ảnh “trăm hoa cười’’ tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ, cho vẻ đẹp của cây cổ thiên nhiên và mùa xuân. Nhựa sống mùa xuân, hương sắc mùa xuân… còn gì đẹp hơn? Và khi mùa xuân đi qua, ngày tháng sẽ trôi nhanh theo mùa hạ, chuyển sang mùa thu rồi đến mùa đông, chẳng bao lâu lại trở về mùa xuân… cỏ cây, hoa lá, tạo vật cũng biến đổi, sinh trưởng hay phai tàn theo 4 mùa, năm tháng. Khi mùa xuân trôi qua, “trăm hoa rụng” (bách hoa lạc) theo quy luật của tự nhiên. Hai câu thơ mang màu sắc triết lí, khái quát quy luật tồn tại của thiên nhiên và sự vận động của thời gian. Mùa xuân cũng như sự sống thiên nhiên chuyển biến bất tận: “xuân qua” rồi “xuân tới”, “hoa nở” rồi “hoa tàn ”… Mùa xuân là vĩnh hằng. Cỏ cây, trăm hoa cũng như vạn vật, con người đều bị chi phối theo quy luật khắc nghiệt của tự nhiên:
“‘Xuân qua, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười”
Bước đi của mùa xuân “qua… tới”, cũng như trăm hoa “rụng… nở”, một lối nói đầy cảm xúc, làm cho câu kệ vốn khô khan đã trở thành câu thơ đẹp và hay. Qua đó, ta thấy tâm hồn vị Thiền sư quả là đẹp!
Hai câu tiếp theo, Mãn Giác nói về chuyện người, chuyện đời. Trong cõi nhân sinh, vạn vật biến diễn không ngừng, vận động theo năm tháng “Trước mắt việc đi mãi… Cũng như con người, có sinh tất có tử, lúc khoẻ mạnh ắt có lúc ốm đau, bệnh tật, có tuổi hoa niên trẻ tráng tất cái già sẽ đến. Quy luật cuộc sống là như thế, vốn thế! Vị cao tăng đang nằm trên giường bệnh, đọc bài kệ này cho các đệ tử nghe. Ông muốn nhắc nhở họ với tất cả sự thanh thản: Ông đã về già, đang “có bệnh ”, nhất định sẽ “tịch ” (chết). Đó là lẽ thường tình, có gì đáng sợ, đáng lo. Ý tưởng và triết lí của câu kệ cao siêu vô cùng. Hãy biết yêu cuộc đời với sự thanh thản – hãy làm chủ cuộc sống:
“Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi”.
Bài kệ được khép lại bằng hai câu tuyệt cú, xưa nay được truyền tụng như một vần thơ đẹp trong bài cổ thi:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước, một cành mai).
Hai tiếng “mạc vị ” (đừng tưởng) như một lời nhắc khẽ, thấm thìa. Câu thơ cấu trúc liên hoàn, tương phản: “hoa rụng hết ” và “một cành mai ” nở ra. Hình ảnh “nhất chi mai ” (một cành mai) là một thi liệu ta thường bắt gặp trong thơ cổ. “Đối ngạn: nhất chi mai ”, (Bên suối: một nhành mai) – Hồ Chí Minh… nhành mai tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao, lộng lẫy của thiên nhiên và con người. Trong bài thơ này, cành mai nở hoa buổi xuân tàn là một hoán dụ nghệ thuật, nhà thơ lấy nó để nói về mình, chỉ về mình, biểu lộ một quan niệm nhân sinh của vị chân tu: vạn vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi, có sinh, trưởng, lão, bệnh, tử… nhưng nhà tu hành chân chính, đắc đạo có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử, ngoài quy luật tự nhiên như cành mai nở hoa buổi xuân tàn, khi trăm hoa đã rụng hết! Vậy thì ta (Thiền sư Mãn Giác) đang “có bệnh ” là chuyện thường tình, theo quy luật của tự nhiên có gì đáng băn khoăn? “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Truyện Kiều). Ngoài triết lí sâu xa của đạo Phật, được cụ thể hóa và hình tượng hóa qua hình ảnh “nhất chi mai ”, câu thơ còn ẩn chứa một ý nghĩa đẹp: nhà sư rất lạc quan yêu đời. Với ông, thìthiên nhiên hữu sắc hữu hương, tràn đầy sức sống, tươi mát trẻ trung, cuộc sống không ngừng vươn lên mạnh mẽ theo dòng chảy thời gian.
Bài kệ “Cáo tật thị chúng ” thể hiện một cốt cách, một quan niệm sống đẹp của vị Thiền sư đức trọng tài cao. Tư tưởng Phật giáo hoà quyện với chất thơ, tầm cao sâu triết lí đạo Phật được trang phục bằng lời thơ đẹp, giàu hình tượng và cảm xúc.
Bài kệ đã trở thành bài cổ thi, đã đi suốt hành trình một thiên niên kỉ. Đọc bài “Cáo tật thị chúng”, ta trân trọng tinh thần yêu đời, yêu sự sống của vị Thiền sư, chúng ta yêu thêm vẻ đẹp trắng muốt của cành mai nở hoa buổi xuân tàn. Dư vị của bài thơ như một lời nhắc khẽ: hãy làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời và biết làm chủ bản thân mình, để yêu đời, yêu sống, để lao động và học tập say mê.
Phân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư – Bài làm 4
Trong Phật giáo, trước khi lìa bỏ cuộc đời thì các thiền sư thường làm một bài thi kệ, đây là những triết lí mà thiền sư giác ngộ được trong cuộc đời, đồng thời đó cũng là những lời giáo huấn cho chúng đệ tử.Bài thơ “Cáo tật thị chúng” được Mãn Giác Thiền sư sáng tác khi thiền sư đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ đã thể hiện được nhiều triết lí sâu sắc trong cuộc đời.
Trong những câu thơ đầu tiên, Mãn Giác thiền sư đã gợi ra trạng thái của những bông hoa khi tàn tàn – nở:
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai”
Dịch:
(Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười)
Trong hai câu thơ đầu tiên này chúng ta cảm nhận được sự độc đáo trong cách thể hiện.Bởi chúng ta thường nhắc đến những cái đẹp, những giây phút huy hoàng trước khi nói về sự tàn úa, phôi pha bởi đây là một tâm lí thông thường ở con người, trong chúng ta ai cũng thích những cái đẹp đẽ, hoàn thiện mà không ai muốn nói đến sự phôi pha, chia lìa.
Ở trong hai câu thơ này, Mãn Giác Thiền sư đã nói về sự tàn úa của những bông hoa trước khi nói về sự tươi đẹp, bung nở của những bông hhoa. Hai câu thơ đã thể hiện được quy luật của tự nhiên: Xuân đi trăm hoa sẽ tàn úa, phôi pha theo, xuân đến mang đến sự sống cho trăm hoa. Tác giả đã lựa chọn cách nói trái ngược như để nhắn nhủ đến mọi người: xuân đến rồi cũng sẽ đi, đây là quy luật của tự nhiên không thể thay đổi, do vậy con người cần giữ cho mình tâm thế bình thản để đối mặt với nhiều biến động trong cuộc sống. Trong thơ của Xuân Diệu ta cũng bắt gặp quan niệm về sự chảy trôi tuần hoàn của vũ trụ :
“Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Trở lại với bài thơ, ta có thể thấy con người luôn bị xoay vần bởi những nhịp vận động của cuộc sống, trong cuộc đời của mỗi người có biết bao đổi thay, chính những đổi thay của ngoại cảnh ấy làm cho con người đắm chìm trong nó mà đôi khi quên mất cả bản thân mình.
“Sự nhục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai”
Dịch:
Việc đời ruổi qua trước mắt
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu
Con người luôn chạy theo những nhịp vận động không ngừng của cuộc sống mà vô tình quên mất chính mình, để khi quay đầu lại thì tuổi già đã đến. Mãn Giác thiền sư như muốn truyền đạt một triết lí: Cần ngừng lại những cuộc rong ruổi theo những danh vọng phù phiếm mà nên lo cho chính bản thân của mình, rèn luyện để có thể sống đạo đức, tình nghĩa hơn.
Không nên đợi tuổi già đến mới lo việc học đạo bởi khi về già đầu óc không còn được minh mẫn, nhanh nhạy như khi còn trẻ nữa, cũng như “không có một tinh thần mạnh mẽ trong một thân thể suy nhược”. Khi về già mới cố gắng thì khó có thể đạt được những mục đích mà mình để ra, dù có quyết tâm nhưng lực bất tòng tâm.
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
Dịch:
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai)
Có thể có nhiều người sẽ thấy ngỡ ngàng, khó hiểu vì xuân đã tàn mà mai chưa tàn. Ở đây, Mãn Giác thiền sư đã sử dụng ngôn ngữ để truyền tải những triết lí phật giáo đầy sâu sắc. Đây có lẽ không phải là hình ảnh trong thực tế mà nó được dùng để nói về sự giác ngộ, bởi với những người ngộ đạo,đã giác ngộ được những chân lí trong cuộc đời thì có thể cảm nhận được cái đẹp,cái vô hình mà bằng nhận thức khách quan khó có thể thấy được.
Hai câu thơ cuối của bài thơ, thiền sư như muốn nhắn nhủ đến chúng đệ tử: không nên lo sợ đến việc sinh tử trong đời, chỉ sợ mỗi người chưa thực sự giác ngộ để nhận thực được hành động và tâm tính của mình.Hãy sống làm sao để những lời nói,hành động đều có thể mang đến niềm vui,hạnh phúc cho bản thân,cho người khác.
Như vậy, bài thơ Cáo tật thị chúng bên cạnh miêu tả những quy luật của tự niên, thiền sư Mãn Giác đã nhắn nhủ nhiều triết lí sâu sắc trong cuộc sống, mang đến cho độc giả nhiều bài học về cuộc đời, về sự sống thực tại.
Bài thơ Cáo tật thị chúng
Phân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư – Bài làm 5
Bài kệ Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) của Mãn Giác thiền sư (1052-1096) ra đời vào những năm đầu thế kỉ X thời nhà Lý. Giai đoạn được coi là có tính chất mở đầu đặt nền móng cho văn học trung đại Việt Nam trên ba bình diện: văn tự chữ viết và tư duy nghệ thuật. Thế kỉ X – XIV là giai đoạn đầu tiên của chế độ phong kiến. Những người cầm quyền khi đó vừa dựa vào tôn giáo bản địa vừa tiếp thu ba thứ tôn giáo bên ngoài “Nho-Phật-Lão” để xây dựng nhà nước.
Do đó văn học mở ra nhiều phương diện về nội dung tạo được tiếng nói đa dạng và phong phú. Khi đi vào bài kệ có thể thấy không chỉ Phật giáo mà các tôn giáo khác như Nho giáo Lão giáo cũng ảnh hưởng không nhỏ về mặt tư tưởng. Tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” đã cung cấp thế giới quan sự cảm nhận về thế giới; đồng thời chi phối hệ thống hình tượng thể loại và phong cách biểu hiện.Tác giả của Cáo tật thị chúng không viết tên thật là Lý Nguyên mà lấy danh xưng là Mãn Giác thiền sư. Cáo tật thị chúng cũng không phải là một bài thơ đúng nghĩa mặc dù cho đến nay người ta vẫn coi đó là một thi phẩm cổ điển toàn bích. Đó là một bài kệ được làm khi Mãn Giác thiền sư đang mang bệnh sắp rời xa cuộc đời. Nói cách khác đây là một hình thức di ngôn nói lên chứng nghiệm sau cùng của nhà thiền sư về lẽ sống chết của người.Nổi bật trong bài kệ là mối quan hệ giữa mùa xuân thiên nhiên và mùa xuân đất trời đặc trưng cho tư duy thơ của ý thức hệ Phật giáo đặt trong mối tương quan với Nho giáo và Lão giáo. Với Mãn Giác thiền sư mùa xuân của đất trời có thể kiến tạo mùa xuân đời người. Vì thế hãy nhìn sự vật cũng như những biến đổi của thời cuộc ở trạng thái an nhiên nhất. Điều này phù hợp với quan điểm của văn học trung đại cho rằng: sự vật là bất biến nhân quả.
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười)
Bốn câu đầu của Cáo tật thị chúng được viết dựa trên cấu trúc đăng đối: Xuân khứ – xuân đáo bách hoa lạc – bách hoa khai: đối cả về ý về thanh điệu và cấu tứ.
Hai câu thơ sau tính chất biền ngẫu rõ và chặt chẽ hơn: Quá – lai khiến cho ý “khứ” “đáo” ở trên được lặp lại hai lần xoay vần. Những động từ bình thường ấy đã mang lại cái mang mác vô biên tính tương khắc tương nhập cấu trúc vận hành bất tận của vũ trụ. Đó chính là lý thuyết về Dịch trong Khổng giáo chi phối nhân sinh quan và vũ trụ quan Phương Đông. “Tử viết: “Dư dục vô ngôn” Tử Cống viết: “Tử như bất ngôn tắc tiểu tử hà thuật yên?” Tử viết: “Thiên hà ngôn tai? Tứ thì hành yên; bách vật sinh yên. Thiên hà ngôn tai?” (Thiên Dương Hoá – Luận Ngữ)“Khổng Tử nói: Ta không muốn nói gì nữa. Tử Cống nói: Nếu thầy không nói thì bọn đệ tử chúng tôi làm sao thuật lại [cho đời sau] được? Khổng Tử nói: Trời có nói gì đâu? Mà bốn mùa cứ xoay vần; trăm loài cứ sinh hoá. Trời có nói gì đâu”[1]. Trời vừa là tự nhiên xoay vần trong vòng sinh sinh hoá hoá vừa có ý chí. Quan niệm về lẽ thường của Khổng Tử gắn với quan niệm thuyết thiên mệnh. Thiên mệnh trong Nho giáo nhằm chỉ tính chất khách quan mà sức người không thay đổi được. Theo Nguyễn Hiến Lê trong Luận ngữ có 6 chỗ nói về thiên mệnh.
Một trong những luận bàn về thiên mệnh thường được nhắc đến của Khổng Tử là: “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo); ba mươi tuổi biết tự lập (tự mình theo chính đạo); bốn mươi tuổi không nghi hoặc (biết sự việc nào phải hay trái tốt hay xấu) năm mươi tuổi biết mệnh trời (ngũ thập tri thiên mệnh); sáu mươi tuổi đã biết theo mệnh trời; bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý”.
Như vậy tuy thiên mệnh là cái không thay đổi được nhưng hiểu được sự biến hoá diễn biến trong vũ trụ khiến cho mọi vật sinh trưởng được một cách điều hoà. Từ đó sẽ khiến cho con người không nên trái nó cũng không nên sợ nó. Trong Luận ngữ có hơn năm trăm điều chép lời Khổng Tử thì chỉ có 22 điều nói đến “thiên” và “mệnh” còn trực tiếp nói về thiên mệnh thì chỉ có 3 chỗ. Tuy thế Khổng Tử vẫn chấp nhận chiều kích tâm linh và thần linh trong vũ trụ và trong cuộc sống của con người. Ông coi trọng việc tế Thiên nhận định thiện đạo như một lối sống theo luật của thiên và thiên mệnh như quy luật của trời. Nhưng như vậy không có nghĩa là tư tưởng thiên mệnh của Khổng Tử giống với các tư tưởng Thiên mệnh trước và sau đó. Điều chính yếu trong quan niệm của Khổng Tử về thiên mệnh về ý trời về sự vật xoay vần tạo hoá chính là mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân và vai trò đặc biệt của con người trong nguyên lý “Tam tài” này. Con người không thể tự tạo tự sinh tồn. Do đó thiên giữ vai trò là phụ mẫu (thiên chi phụ mẫu) còn Địa là vạn vật chi mẫu vấn đề sinh tử của con người chỉ có thể hiểu và giải quyết trong sự tương quan của con người với Trời và Ðất: “Không phải Ðạo làm con người lớn song chính con người mới làm sáng Ðạo”. Hầu hết các triết gia trung quốc đều chủ trương rằng: Thiên nhân hợp nhất (cũng gọi là thiên nhân tương dữ) – nghĩa là người bẩm thụ được cái “tính” của trời thì đạo của trời tức là đạo của người.Mang tư tưởng Khổng Tử vào bài kệ có thể thấy hoa nở cũng là đạo mà hoa rụng cũng là đạo. Thiên nhiên trong Cáo tật thị chúng hiện ra chung chung như một quy luật hiển nhiên. Chỉ có điều tại sao nhà thơ lại đảo ngược quy luật không phải là đáo – khứ khai – lạc. Người đời yêu hoa nở hắt hủi hoa tàn thường nghĩ đến “khai” trước “lạc” chi bằng hãy đón nhận nó bằng sự tàn úa để hiện thực hoá khát vọng hồi sinh trong vòng luân hồi của sự sống. Để cuộc hoá sinh vì thế mà trở nên nhẹ nhõm hơn tươi tắn hơn. Mãn Giác thiền sư chỉ bằng việc đảo trật tự tư duy thông thường đã tạo nên một vòng tuần hoàn đầy chất gợi mở. Một mặt vẫn bình thản trước vòng xoay của tạo hoá mặt khác lại ngầm gợi đến niềm hi vọng sự chờ đợi rằng: trong cái an nhiên ấy cái sau sẽ tốt đẹp hơn cái trước. Chỉ có điều không thể trốn tránh không thể phủ nhận quá trình sinh hoá của vạn vật. Có nở ắt có tàn. Thiên nhiên đã nhắc ta điều đó. Thiền sư Chân Không (946 – 1001) khi trả lời câu hỏi của một vị tăng: “Sắc thân này huỷ nát thì thế nào?” đã ứng khẩu:
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận
Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân
(Xuân đến xuân đi ngờ xuân tận
Hoa tàn hoa nở vẫn là xuân)
Vẫn những chữ “xuân” “khứ” “lai” “lạc” “khai” để chỉ dòng chảy sinh hoá nối tiếp nhau đến vô cùng. Con người không thể thoát khỏi dòng chảy ấy. Đó là kết quả của việc tin rằng trong vũ trụ có một luật biến hoá nào đó có thể tìm hiểu được với một thái độ thuần triết. Như vậy với triết lý Khổng giáo trời có ý chí lại vừa là cái lí vô hình có khi ta hiểu nổi có khi ta không hiểu nổi.Ý thức hệ “tam giáo đồng nguyên” của đời Lý cũng được nhà sư thấm nhuần. Trong những dòng kệ có cả triết lý thâm sâu của nhà Phật vũ trụ quan Dịch của triết học Trung Quốc: “Sinh sinh chi vị dịch” (từ âm dương biến hoá ra vạn vật sinh sinh ra mãi gọi là dịch) phong thái của Lão Trang lạc nhiên tri mệnh (vui với thiên nhiên hiểu mệnh) của Nho gia. Theo Phật sự sống của người ta quyết không phải chỉ trong một thời kỳ mà vì nghiệp lực là sự tồn tục vô thuỷ vô chung và thích ứng với tính chất của nghiệp con người sinh vào nhiều cảnh ngộ và dưới những hình trạng sinh vật khác nhau: đó là thuyết “y nghiệp luân hồi” (samsara – lưu chuyển).Phật giáo còn cho rằng sinh mệnh do nhân duyên cấu tạo mà chủ trương vô-ngã-luận. Trang Tử thì nói: Bên này” cũng là “Bên kia”. “Bên kia” cũng là “Bên này”. Cốt tuỷ đích thực của đạo là khi “bên này” “bên kia” không còn mâu thuẫn nữa. Chỉ cái cốt tuỷ này như một cái trục là tâm điểm của vòng tròn và trả lời mọi thay đổi không ngừng”. Trong mọi biến dịch Lão giáo thấy đó là hiện thân của sự tác động hai cực âm dương và như thế họ tin rằng trong mọi cặp mâu thuẫn hai đối cực tương tác lên nhau một cách năng động. Trong bài thơ nó tương ứng với nở và tàn sinh và diệt sống và chết. Sự biến dịch này không nên xem là hệ quả của một lực mà là khuynh hướng chung bao gồm mọi vật và tình trạng. Sự vận động của đạo không phải do ai tác động mà thành mà là khuynh hướng hồn hậu tự nhiên. Nguyên lý tác động trong Lão giáo là sự hồn nhiên và vì con người cũng phải thuận theo Đạo nên sự hồn nhiên là một đặc tính của hành động con người. Thuận theo thiên nhiên mà làm đối với Lão giáo có nghĩa là làm một cách hồn nhiên tuỳ thuận tự tính. Lão giáo cho rằng cần tin theo trí tuệ trực giác nằm sẵn trong đầu óc con người cũng như qui luật của biến dịch nằm sẵn trong mọi xung quanh chúng ta.
Đúng như Hoài Nam Tử đã nói: Cứ theo trật tự tự nhiên cứ trôi theo dòng của Đạo từ “Tri” đến “Ngộ” là cả một chặng đường dài. Một đạo sĩ Ấn Độ từng nói: “Trước khi học thiền núi vẫn là núi. Được chỉ giáo núi không còn là núi. Khi giác ngộ núi trở lại là núi”. Chính vì thế thời gian chỉ là cái bề ngoài vô thời gian mới là chân như. Đặc biệt với Phật giáo thiền tông cái sắc thân đều vô nghĩa phải nhìn thẳng vào nó. Sống là chết chết là sống. Chính vì thế phải nhìn nhận được vòng tuần hoàn của cuộc đời một cách nhẹ nhõm điềm nhiên nhất. Chỉ hai câu thơ của Mãn Giác thiền sư mà đã mang ý vị triết luận thấm nhuần tư tưởng “Nho-Phật-Lão” hiểu thấu lẽ thường của đất trời của cuộc đời. Con người thường đi tìm cái vô hạn oán ghét trời đất đã tạo ra cái hữu hạn để sinh ly tử biết nuối tiếc những gì đã qua. Hai câu kệ của Mãn Giác thiền sư cho thấy rằng: cái vô hạn nằm ngay trong cái hữu hạn trong tử có sinh trong sinh có tử tất cả nằm trong vòng tròn của Đạo. Hiểu được điều này người ta sẽ không còn mê đắm trước những gì đang tới đau đớn trước những gì sẽ qua trước cuộc sinh ly tử biệt. Ấy là tư tưởng rất đặc trưng cho phạm trù văn học trung đại nói chung và thời kì văn học Lý Trần nói riêng. Tư tưởng an nhiên trước thời cuộc này sẽ còn được lặp lại nhiều lần trong những tác phẩm về sau kể cả những tác phẩm thuộc nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ngay cả khi mà đạo Phật không còn giữ địa vị độc tôn và Nho học đã đi vào thời kì suy thoái. Mãn Giác thiền sư an lòng sống với cái hằng thường nhắc nhở người ta về vòng tuần hoàn của cuộc đời để đừng lo lắng đừng lo lắng sợ hãi hay kinh ngạc trước nó. Mãn Giác thiền sư lấy thiên nhiên làm thước đo cho con người sự tuần hoàn của thiên nhiên tất yếu kéo theo vòng xoay của con người:
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
(Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi)
Hai câu thơ giữa trong bài kệ của Mãn Giác thiền sư gợi nghĩ đến những câu thơ của thiền sư Vạn Hạnh trong bài Thị đệ tử cũng với triết lý Phật giáo:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
(Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô)
Lấy sự vật thiên nhiên làm thước đo Vạn Hạnh cũng như Mãn Giác muốn nói với con người ta rằng: Kiếp người thật ngắn ngủi sự hiện hữu của mỗi con người trên thế giới này chẳng qua chỉ là nhất thời thoáng qua như tia chớp như giọt sương sớm mai treo trên đầu ngọn cỏ. Chu kì một kiếp người giống như cuộc vận hành của đất trời không cùng: hết xuân đến thu hết tươi tốt đến khô héo hết tuổi trẻ (xuân) đến tuổi già (thu)… Đó là quy luật. Mà đã là quy luật thì con người không thể cưỡng nổi. Nên giữ cho mình cái mình cái bình thản trước vòng quay luân hồi của “Sinh lão bệnh tử”. Trong cái vô thường mà nhận ra cái thường hằng vĩnh cửu sống trong an lạc nhẹ nhàng mà mỉm cười trước đổi thay khi đó là đạt đạo.Đó cũng chính là một đặc trưng của văn học trung đại khi rất chú trọng mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên giữa kiếp người với trần thế mà ở đó thiên nhiên chi phối quyết định sự vần xoay của đời người. Thuý Kiều con người “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen” cũng được ví vẻ đẹp với những chuẩn mực của thiên nhiên số phận cũng không tránh khỏi những gì mà thiên nhiên đã định sẵn: “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”. Thơ văn của các nhà Nho xưa dù mang tư tưởng xuất thế hay nhập thế đều giữ cho mình sự giao hoà với thiên nhiên đất trời để đứng vững không lấy làm kinh sợ trước sóng gió cuộc đời. Nói riêng thơ Thiền cũng vậy. Dù có miêu tả sắc thân tịch diệt thì vẫn giữ trong thơ trong mình một tâm hồn yên tĩnh đến kì lạ. Con người trong Phật giáo thiền tông cũng là con người: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”: làm chủ trong mọi biến ảo. Vì thế Mãn Giác thiền sư nói đến vòng quay “lão” của đời người cũng chỉ như một bước xoay vần của tạo hoá. Câu kệ có man mác buồn nhưng chủ yếu như một tiếng thở dài nhẹ và sâu. Từ triết luận về mùa xuân đất trời – xuân đời người về lẽ sinh tử Cáo tật thị chúng đã kiến tạo một vòng xoay khép kín: Sinh – lão – bệnh – tử sinh – trụ – dị – diệt bằng hình ảnh của một nhành mai âm thầm khẳng định sức sống vô biên và vĩnh hằng:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai)
Mãn Giác thiền sư đã kết Cáo tật thị chúng bằng hai câu thơ thất ngôn phá cách không đăng đối mà ngắt nhịp khác biệt ở câu cuối cùng: Đình tiền/ tạc dạ/ nhất chi mai. Một câu thơ không có động từ không bị làm hẹp nghĩa bởi chữ: “khai” (nở) đáng ra phải có theo nguyên tắc để đối với động từ “lạc” ở trên. Cây mai chính là biểu tượng của vẻ đẹp kín đáo thanh cao dịu dàng. Mai cũng là loài cây đứng đầu trong tứ hữu của người xưa. Có thể kể để Lục Du đời Tống viết trăm bài về mai. Tranh màu nước của Trọng Nhân vẽ mai đen trắng trong màu nắng bát ngát Đời. Người mượn mai biểu hiện khí tiết phẩm hạnh của mình. Kẻ sĩ bất khuất Cao Bá Quát cũng phải hạ bút: “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai” (Một đời chỉ biết cúi đầu trước hoa mai). Câu thơ mượn hình ảnh cành mai không phải một bông mai nở một cây mai mà chỉ là một cành mai đêm qua ở sân trước. Sau sự huỷ diệt là bất diệt. Mùa xuân lại được tiếp nối vĩnh cửu. Sự sống con người được lặp lại. Mùa xuân đất trời tái tạo mùa xuân đời người thanh khiết hơn đẹp đẽ hơn. Đúng như Khổng Tử đã dùng “thiên địa vạn vật nhất thể” (trời đất vạn vật đều có cái lý ấy cả tất là cùng đồng một thể) để làm thống kê cho học thuyết của mình. Cái lý nhất thể ấy lưu hành khắp trong vũ trụ theo cái lẽ tương đối tương điều hoà mà sinh sinh hoá hoá. Vậy cái lý ấy là cái nguyên nhân của sự sinh hoá trong vũ trụ.Cách Mãn Giác thiền sư hàng thế kỉ Chế Lan Viên cũng có những câu thơ thật đẹp viết về vòng luân hồi cuộc đời mang đậm tư tưởng Phật giáo thiền tông trong văn họ c trung đại:
Anh tồn tại
Không bằng tuổi tên mà như tro bụi
Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên
Nhành mai Mãn Giác vẫn hiện hữu ở đó từ “đêm qua” và qua đêm vẫn còn nguyên vẹn đó. Còn nhành mai đó thì vẫn còn xuân đến xuân đi còn có hoa nở hoa rụng. “Nhất chi mai” xuất thần đã trở thành biểu tượng cho tâm thế yên nguyên. Ấy là cái thường trong cái vô thường. Đó là chân như tưởng như hiếm có trong cuộc đời. Và như vậy bên ngoài vẻ hằng thường bình thản trước thời cuộc số mệnh là tâm hồn còn thiết tha còn gắn bó nhiều lắm với cuộc đời này của thiền sư.
Đó cũng chính là một trong những nét đẹp sâu sa trong tư tưởng của các tác giả trung đại. Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) là một bài kệ. Như đã nói ở trên tác phẩm mang hình thức di ngôn. Văn học trung đại có nhiều thể loại văn học như: chiếu hịch cáo thơ phú… Trong đó phần lớn thơ đời Lý là kệ. Đây cũng là một hình thức gián tiếp của việc nói chí tỏ lòng và văn dĩ tải đạo thi dĩ ngôn chí những đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam. Tuy nhiên yếu tố tải đạo được thể hiện một cách sâu sắc ngầm ẩn trong hình thức rất giản dị của một bài kệ. Bởi đó là chiêm nghiệm của cuộc đời một con người đã đạt đến mức đắc đạo an nhiên với cuộc đời. Đồng thời đây cũng là lời nhắn nhủ của Mãn Giác thiền sư. Nét đẹp của bài kệ là: Bài kệ được viết trước lúc lâm chung nhưng lại không mang cảm giác về cái chết và sự hữu hạn của đời người. Đặt trong tương quan văn hoá
Phương Đông có thể thấy dấu ấn đậm nét của các tư tưởng Nho Phật Lão trong Cáo tật thị chúng. Điều làm nên giá trị của bài kệ chính là từ sự kết hợp chắt lọc các nguồn tư tưởng này: thuyết luân hồi của Đạo Phật nguyên lý biến đổi thuận theo tự nhiên của Lão giáo nhưng lại không thuần tư tưởng “vô vi tịch mịch” – không thích gì đến sự đời. Cành mai Mãn Giác vẫn đẹp vẫn tươi tắn rạng ngời bất kể thời gian đổi thay hoa vẫn nở sau khi đã tàn héo rơi rụng đời người lại chờ đợi được tạo sinh trong một vòng tuần hoàn mới. Có được điều đó phải chăng là sự thẩm thấu của tư tưởng Nho giáo về đạo trời đất theo cái chung mà biến hoá luôn làm cho mỗi ngày một mới hơn một tốt hơn đó là cái đức thịnh của đất trời: “Nhật tân chi vị thịnh đức”. Sự biến hoá ấy do một âm một dương sinh sinh hoá hoá mãi ra theo đạo ấy mà đi là thiện thành được đạo ấy là tính. Và con người đắc đạo ấy con người đúng với cái tên Mãn Giác thiền sư – nhà thơ ý thức đầy đủ nhất hẳn sẽ nở nụ cười viên mãn bước tiếp hành trình bất tận của mình.
Cáo tật thị chúng
Phân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư – Bài làm 6
Thời gian với lộ trình vô tận mà sự đổi thay là một thuộc tính bất di bất dịch, sự triển chuyển là cơ sở để có sự phát sinh và cả hoại diệt, sự tăng trưởng sinh sôi cũng đồng thời tàn tạ mỏi mòn. Quy luật là như thế và nền tảng của sự sống cũng như vậy. Bài thơ không còn dừng lại ở dấu ấn xưa nay của thi ca là ca ngợi miêu tả thuần tuý một vẻ đẹp hay một cảm xúc bay bổng, đôi cánh cảm nhận mang màu sắc trí tuệ đã nâng lên những giá trị mang tính muôn thuở, một thế giới quan và hơn thế nữa_nhân sinh quan sống động.
Xuân đi trăm hoa rụng.
Một mệnh đề tưởng bình thường, chẳng có gì cao sâu, nhưng mấy ai cảm nhận và chấp nhận được.Ta vẫn đau lòng khi ai đó mất đi, vẫn hụt hẫng vì một sớm chia lìa hay một chiều tang tóc, ta biết sự đến đi là tất nhiên nhưng vẫn mong cho “thời gian dừng lại” hay “tuổi thơ quay về. Ta vô tình tự mâu thuẫn chí ít là với những hiểu biết cơ bản nhất của chính mình. Ở điểm này, câu thơ đã có giá trị cảnh tỉnh sâu sắc.
Xuân đến trăm hoa nở.
Đây chính là sự tất nhiên mang tính vĩnh hằng. Vốn dĩ xưa nay con người chỉ muốn và mãi muốn thụ hưởng và chấp nhận những gì quy luật mang lại, hợp với chí hướng của mình, do đó mà có tâm lý vui khi xuân về hoa nở, buồn khi đông đến hoang liêu. Đâu biết rằng đông chính là nền tảng để một ngày xuân bừng dậy tinh khôi hào nhoáng. Không có đêm, làm gì có ngày, không có Đông làm gì có mùa xuân, hiểu cả về mặt sự đối chiếu làm nổi bật và tính triết lý nền tảng.
Những nỗi đau càng chồng chất nỗi đau khi bên cạnh sự khắc khoải của thịt da, ta lại bồi đắp thêm sự xót xa tiếc nuối hay sợ hãi triền miên, thì tất yếu sự khổ đau càng gấp bội và đáng thương cho ai vẫn mong mỏi một điều không thật có là trẻ mãi không già, sống hoài không chết,… Vậy nên hoa nở và hoa rụng chẳng qua là một vòng quay, sự tuần hoàn tất yếu mà với cái nhìn biện chứng, tự nó không mâu thuẫn mà là hai mặt hữu cơ và bổ sung nhau.
Và từ sự tổng quan rộng lớn, Thiền Sư đã đưa về mảng thời sự tính, đó là thân phận con người, điều mà bất cứ ai cũng phải đối mặt:
Trước mắt sự qua mãi
Trên đầu già đến rồi.
Quy luật của trời đất vốn mang tính lạnh lùng và công bằng đến tuyệt đối. Khổng Lão Trang có quan điểm:
Thiên trường địa cửu hữu thời tận
….
Thiên địa bất nhân…
Bất nhân ở đây chính là không thiên vị, nhân nhượng bất cứ ai, bất cứ điều gì. Đó là quy luật tự nhiên. Rồi một ngày có kẻ sĩ kiêm nhà hiền triết đất Trung nguyên tiễn đưa bạn đời quá cố về miền vĩnh hằng với khúc Cổ bồn phiêu nhiên vô tư lự! Bóng câu qua cửa sổ, giấc mộng kê vàng, đời người giấc mộng,… là những ý tứ người ta vẫn thường chỉ về sự đổi thay. Nhưng chẳng có gì nhanh, chẳng có gì chậm, mức độ vẫn bấy nhiêu, chẳng qua do con người áp đặt lên chúng bằng một thứ người ta quen gọi là thời gian tâm lý, do tiếc nuôí sự đã qua, do mong mỏi kéo dài những gì tâm đắc:
Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết
Một ván cờ thua ngả bóng chiều
(Vũ Hoàng Chương )
Việc vẫn trôi qua đều đều, người cũng tuần tự già đi. Già bởi đã trải qua thời trai trẻ, và trẻ rồi cũng sẽ già, vết thời gian in đậm trên thân xác mỗi sinh linh, ta không thể chuyển dời, duy tâm ta thì có thể. Ta hiểu được cuộc đời, sống chung với sanh, già, bệnh, chết vô tư như một dòng triển chuyển tất nhiên, ta cứ lạc quan khi tuổi già gõ cửa, có thể làm được quá đi chứ!
Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai.
Con người chỉ nắm bắt hiện tượng đang diễn ra, và rồi cố chấp vào những ảnh hoá đó bằng tâm cứng đọng phi biện chứng.Sự cố chấp này chi phối cả thế giới tư duy và màu sắc cảm nhận của chủ thể.
Khi Thiền sư nói “đừng bảo…” cũng có nghĩa, Ngài chỉ ra sự phiến diện của tư duy què quặt cố hữu của con người. Đó là những rối rắm nội tại phát sinh từ sự thiếu chân xác trong kiến quan hạn hẹp để rồi bao hệ luỵ cũng từ đó phát sinh theo mô thức phản ứng dây chuyền trong thế giới hạt nhân phóng xạ. Có thể nói câu thơ như một hình thức KHAI (mở), mang lại cái nhìn mới chân xác và thiết thực hơn cho các đối tượng.
Đêm qua sân trước một nhành mai.
Hãy thoát ly sự cố chấp đi, anh sẽ nhìn rõ hơn sự mầu nhiệm của cuộc sống. Cành mai hôm nào, nay đã không còn và anh sẽ bảo chẳng có mai. Thiền sư không nói về cành mai cụ thể trong một thời điểm cụ thể đó, Ngài đang nói về cành mai BẤT DIỆT, cành mai bản thể (bản chất, nền tảng). Đây có thể gọi là phần THỊ (chỉ rõ)so với phần KHAI ở trên. Về phương diện biện chứng học, chẳng có gì biến mất, chẳng có gì tự nhiên xuất hiện, chỉ có sự biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Tôi tuy không phải là cha tôi nhưng cha tôi vẫn hiện hữu trong tôi mặc dầu ông ấy đã mất từ lâu, dị mà đồng, đồng mà dị.
Biết rõ sự đổi thay là hiện tượng,sự miên viễn là vĩnh hằng, quy luật là việc của trời đất, tâm lý và thế giới tâm lý là của riêng ta. Sống chung với quy luật của trời đất là biết chấp nhận nó, hoà mình cùng nó trên lộ trình biến diệt vô thường mà ta không thể nào cưỡng lại được. Một Thiền sư nhận định “Đối trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui lòng chấp nhận nó”. Nhưng để đạt đến cấp độ tâm lý ấy thì thật sự phải có sự chuyển hướng tâm thức thuần thục theo chiều hướng trí tuệ.
Một trong những tiêu chí của Thiền học là thâm nhập được vào thế giới vô thời trong thời gian và vô không trong không gian. Có thể hiểu nôm na là tâm không còn bị chi phối do cố chấp vào những giới hạn thường tình của thời gian và không gian, hai tiêu chuẩn để xác định sự tồn tại của một sự vật, hiện tượng. Sự an nhiên ự tại trước cái chết (thị tịch) của Thiền Sư biểu hiện cao độ, thay vì Ngài là nhân tố đáng thương hại, lại chính là nhân tố chủ động trấn an những đệ tử, những người vẫn đang khoẻ mạnh trẻ trung. Đối diện sự ra đi, Ngài vẫn dõng dạc trong những Pháp kệ được Đường thi hoá, vừa mang giá trị nghệ thuật văn học, lại hàm dung triết lý sâu xa. Cả một đời phụng sự Đạo Pháp, trải bao bài thuyết pháp độ sinh, nay, ngay cả trong giờ khắc còn lại ít ỏi trên cõi đời và đang đối diện cái mà con người kinh khiếp nhất (cai chết), Thiền Sư vẫn tự tại biến đó thành bài Pháp cuối cùng của đời mình và đã trở thành bài thơ bất hủ trên thi đàn dân tộc xưa và nay.
Hi vọng với những bài viếtPhân tích bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sưtrên đây chính làbài viết hayvà hấp dẫn cho các em. Các em hãy tham khảo có chọn lọc các thông tin, kiến thức trên để viết một bài văn hoàn chỉnh nhất cho mình.
Minh Nguyệt