Hướng dẫn làm bài giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình. Chắc chắn đây sẽ là một trong những bài học vô cùng bổ ích và lý thú cho các em học sinh. Các vào đề tự nhiên, cuốn hút, câu từ chính xác chính là một trong những điều các em có thể học tập được thông qua các bài văn mẫu mà Hoctotmonvan.com mang đến.
Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mìnhvừa là một đề bài hay nhưng cũng rất khó. Nó đòi hỏi các em học sinh phải quan sát và mường tượng lại, nhớ lại ở quê mình có làng nghề gì rồi miêu tả. Hãy tham khảo những bài viết dưới đây để có thể giúp cho bài văn của mình hoàn hảo nhất.
Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình – Bài làm 1
“Cuối thu rồi nghe hương cốm thoảng bay
Vương trong nắng chiều heo may trở gió
Cho tôi quay về ngày xưa thơ mộng đó
Nơi đồng làng tôi cắt cỏ chăn trâu“
(Hương cốm mùa thu – Nguyền Đình Huân)
Chắc chắn rằng khi chúng ta được đọc và tưởng tượng những vần thơ về cốm ai ai cũng như đã thấy tuổi thơ của mình trong đó. Những thời ấu thơ được ăn cốm – món quà của bà của mẹ trong mỗi buổi chợ chiều. Cho dù đã lớn nhưng dư vị thơm ngon của cốm như vẫn cứ mãi mãi khắc ghi trong lòng em không bao giờ nguôi ngoai được.
Cứ khi lá vàng, khi mùa thu tới mang theo cơn gió heo may se se lạnh, tiếng rao của những bà bán cốm như vẫn cứ còn vang vọng khắp phố phường. Vẫn còn trong trí nhớ là từng hạt cốm thơm ngon, xanh lục nhạt như nhìn như ngọc được ấp ủ trong chiếc lá sen già, rồi được người ta cột lại bằng một cọng rơm vàng. Em như có cảm giác như bà bán cốm đang gói cả đất trời vào trong ấy, mới nhìn đã biết ấy là mỹ vị nhân gian thơm ngon rồi. Khi ăn cốm ăn là phải biết nhâm nhi, phải biết thưởng thức từ từ để có thể cảm nhận rõ mồn một cái hương vị ngon ngọt của nếp non như đang lan tràn vào khoang miệng cùng hòa vào mùi thơm của lá sen. Tất cả như khiến cho lòng ta cảm thấy khoan khoái biết bao nhiêu. Được thưởng thức cốm là một điều hạnh phúc nhất trong những ngày nhỏ, ngày thơ ấu của tất cả những đứa trẻ quê em có nghề cốm là nghề truyền thống. Được tận hưởng và thưởng thức được hạt cốm non xanh giống như dòng sữa ngọt ngào từ chính đất mẹ thân yêu nhất có biết bao nhiêu tinh hoa đất trời lúc này đây dường như cũng đã đổ dồn và thu nhỏ lại trong hạt ngọc cốm non.
Nhìn làm cốm nhìn tưởng đơn giản thế nhưng nó lại yêu cầu tỉ mỉ, cẩn thận vô cùng. Yêu cầu người đã làm lâu có kinh nghiệm thì mới có thể cho ra một mẻ cốm ngon đúng điệu và thơm ngon được. Có thể thấy được việc đầu tiên là phải biết chọn gặt những bông lúa nếp vào đúng thời điểm. Đây cũng chính là khi lúa vừa qua giai đoạn chín sữa, những bông lúa trĩu nặng kéo thân cây ngả xuống cong như cần câu. Và công việc chọn được lúa rất quan trọng bởi nếu lỡ gặt thóc già quá thì cốm rỡ rạc, khô sáp khi đó ăn không thấy ngon nữa, còn nếu non quá thì lúc giã cốm bị bết dính, thì chúng ta lại chẳng thu được mẻ cốm ngon. Khi mới gặt lúa về ta chọn những hạt chắc, mẩy chọn những hạt to rồi đem rang, tốt nhất là chọn nồi gang đáy dày và rộng, rang trên bếp củi, để lửa liu riu, dùng dũa đảo thật đều tay, cho hạt cốm vừa chín tới. Khi đó phải thật cẩn thận không thì hạt cốm sẽ bị cháy giòn mất. Sau khi thóc chín đều rồi thì đem đi giã trong cối, nhịp chày đều tay, một tay giã tay kia đảo cho vỏ trấu tróc đều. Khi đã giã xong thì đem đi xảy bỏ hết vỏ trấu, thế là đã có một mẻ cốm thơm ngon cho cả nhà thưởng thức hương vị của nó.
Ăn cốm cũng có nhiều kiểu khác nhau, có người thì bốc ăn nhâm nhi, như một thứ đồ ăn vặt cho vui miệng khi trong lúc nhàn rỗi. Có những người thì chấm với chuối tiêu, cho thêm phần thu hứng ngọt ngào. Và nếu có nhà nào có các chị các mẹ siêng năng thì lại lại thích nấu ăn thì ta có thêm món bánh cốm, chè cốm nóng hổi cho một mùa Trung thu ấm áp, một đêm trung thu viên mãn, tròn đầy. Cốm thuở xưa chỉ được biết đến là thức quà quê dân dã mộc mạc của người dân làm lúa nước, nhưng ngày nay chính vì hương vị tinh tế, một sự ngọt ngào tình thu, cốm đã trở thành một món ăn sang trọng, tao nhã. Chắc chắn rằng du khách một lần ghé làng Vòng – quê em, một nơi nổi tiếng làm cốm, hay một nơi nào đó ở Hà Nội mà có nghe hương cốm, thì kiểu gì cũng phải mua về làm quà cho họ hàng bè bạn, bởi thực sự cốm là một món quà quý, là tinh hoa của ẩm thực Việt Nam nổi tiếng với nhiều người.
Mai sau này em có xa quê có đi đến đâu chăng nữa thì em luôn luôn tự hào vì quê hương mình. Nơi đó không chỉ có người thân yêu của em mà còn có một món quà tuyệt vời như cốm được boa bọc trong lá sen sẽ mãi mãi không bao giờ phôi pha trong em.
Giới thiệu một ngành thủ công mỹ nghệ, đặc sản
Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình – Bài làm 2
Sao anh không về thăm em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên.
Cùng với chiếc áo dài thì chiếc nón lá đi kèm từ lâu đã trở thành một hình ảnh tượng trưng cho nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Trở thành người bạn, người con tinh thần cùng với bà con nhân dân.Chiếc nón lá khắc sâu vào tâm trí mỗi người con Việt dù đi đâu về đâu. Một nét đáng tự hào của con dân đất Việt.
Chiếc nón lá xuất hiện từ rất lâu. Từ khoảng 2500-3000 năm trước công nguyên người ta đã chạm khắc hình ảnh chiếc nón lá trên trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn, trên tháp đồng Đào Định… Xuất hiện với đa dạng các loại nón: nón quai thao, nón thúng… ở Gò Lăng, Quảng Ninh.
Chiếc nón thường, phổ biến có dạng hình chóp hay tù tùy công dụng của mỗi loại nón khác nhau mà người làm sẽ thiết kế khác nhau, thậm chí có những nón rộng bản. Lá được dùng để làm nón thường được xếp trên một cái khung gồm các nan tre nhỏ uốn thành hình vòng cung, được ghim lại bằng sợi chỉ, hoặc các loại dây tơ tằm,..giữ cho lá với khung bền chắc, dẻo dai. Những chiếc nón lá thường được đan bằng các loại lá khác nhau như lá cọ, lá nón, lá buông, rơm, lá cối, lá hồi… Thêm vào đó nón lá thường có dây đeo bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ và cố định trên cổ người.
Vật liệu, cấu tạo nón nhìn tuy đơn sơ nhưng phải đến công đoạn hình thành một chiếc nón ta mới thấy trong đó cả sự tỉ mỉ, khéo tay của người thợ thủ công như thế nào. Đầu tiên là khâu chonh nguyên vật liệu là chọn lá, phơi lá, chọn chỉ. Và lá hay được dùng là lá dừa, lá cọ. Có được chiếc lá dừa thì phải mua từ tận trong nam, được vận chuyển và được làm trước khi chuyển tới nơi là nón. Sau đó, chọn lọc lá để xứ lí nhằm đảm bảo độ bền. Loại lá thứ hai là lá cọ và phải đảm bảo được các yếu tố sau: lá non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá cũng trắng xanh. Nếu không lựa chọn tỉ mỉ thì khi cho ra sản phẩm chiếc nón sẽ không được đẹp như ý.
Tiếp đến là công đoạn sấy khô trên bếp than. Sau đó đem lá mang ra phơi sương từ 2-5 giờ đến khi lá mềm ra. Người thợ thủ công sẽ dùng một búi vải và một miếng gang đặt trên bếp nóng để ủi cho từng chiếc lá được phẳng ra. Với thanh sắt bén gọn những người thợ chuốt từng nan tre sao cho tròn đều có đường kính rất nhỏ. Sau đó uốn nan tre này thành những vòng tròn lớn nhỏ đều được giũa bóng bẩy. Mỗi cái nón sẽ có 16 nan tre đã được uốn vòng như này. Những vòng ấy sẽ được đặt vào một cái khung bằng gỗ hình chóp theo vị trí từ dưới lên từ lớn đến bé. Sau đó người thợ xếp khung, người xếp lá phải khéo và đều tay để những chiếc lá không bị chồng lên nhau hoặc xô lệch.
Sau khi xếp lá cho đều, người ta làm đến công đoạn chằm nón. Nón được chằm bằng những sợi ni lông dẻo dai và săn chắc có màu trong suốt. Đòi hỏi người thợ phải có sự khéo léo đến từng đường kim mũi chỉ để có thể chằm nên những chiếc nón xinh đẹp. Để tăng thêm sự bắt mắt và tính thẩm mĩ, người ta thường phủ lên nón một lớp dầu mỏng làm điểm nhấn, và khiến nón được bền hơn. Đê tạo điểm nhấn cho nón thì đó là quai nón. Quai nón thường được làm bằn lục, nhung, khăn voan với những màu sắc tươi tắn: tím, hồng, đỏ.. tăng độ duyên dáng cho chiếc nón.
Nón có rất nhiều loại và được sản xuất ở rất nhiều làng nghề trên cả nước. Những chiếc nón quai thao duyên dáng xuất hiện trong các lễ hội của người miền bắc, nón bài thơ ở Huế hay những chiếc nón ngựa ở Bình Định… Nổi tiếng với các làng nghề làm nón thì có làng Chuông, làng Phủ Cam (ở Huế),…
Đi dọc mảnh đất hình chữ S thật không khó để bắt gặp hình ảnh những chiếc nón. Chiếc nón giản dị mộc mạc đã đi sâu vào đời sống tinh thần. Hình ảnh chiếc nón lá cũng như phẩm chất người phụ nữ Việt nam vậy. Sự trong trắng tinh khôi, nét mộc mạc giản dị cùng sự thanh tao quyến rũ vẫn hiện rõ nét ở trong từng chiếc nón. Chiếc nón cũng là biểu tượng đặc trưng cho hình ảnh đất nước Việt Nam. Những khách du lịch ngoại quốc đi đến Việt Nam thường ghé mua những chiếc nón lá và tỏ ra rất hứng thú với loại sản vật này của dân tộc ta. Nón lá là cũng là vật minh chứng góp phần khẳng định, củng cố hình ảnh đất nước Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Để có thể gìn giữ, và sử dụng chiếc nón một cách tốt nhất. Chúng ta cần lưu ý những điều sau. Cần treo nón lên cẩn thận mỗi khi không sử dụng nón, cần phơi nón ra ngoài trời nắng mỗi khi đi mưa gió về. Cũng không nên ngồi lên nón hay dùng nón để quạt… sẽ khiến nón bị méo vành và hỏng rất nhanh.
Cuộc sống hiện đại phát triển gắn liền với những chiếc xe náy, ô tô, những chiếc nón bảo hiểm. Nhưng chúng ta hy vọng chiếc nón lá vẫn sống mãi với dân tộc Việt Nam. Mỗi người Việt xa xứ, xa quê đều vẫn khắc cốt ghi tâm hình ảnh của quê hương với những chiếc nón lá bình dị, đoan trang, duyên dáng, đơn sơ.
Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình – Bài làm 3
Mỗi vùng miền, mỗi địa phương đều có những nét văn hóa, ẩm thực và những giá trị lịch sử làm nên dấu ấn trong lòng du khách thập phương.Đó là bản sắc của vùng miền mà rộng hơn nữa là làm nên bản sắc cho cả một dân tộc. Hôm nay, mình sẽ giới thiệu với các bạn một nét ẩm thực văn hóa đặc sắc của đất nước cũng như dân tộc mình đó là “bánh chưng”.
Bánh chưng” có từ thời Hùng Vương và Lang Liêu là người đã làm ra chiếc bánh chưng đầu tiên. Nó có nghĩa là mặt đất. bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong những dịp tết, đó là nét đẹp trong văn hóa cổ truyền của địa phương cũng như dân tộc ta. Cách làm bánh chưng cũng không mấy phức tạp. Trước hết nguyên liệu làm bánh chưng cần có lá dong, thịt mỡ, đỗ xanh và gạo nếp. Về gia vị chúng ta cần một chút hạt tiêu và hành khô thái lát mỏng rắc vào thịt để thêm vị đặm đà và mới lạ. cách gói bánh chưng như sau. Trước hết dùng khuôn hình vuông kích thước chiều dài khoảng 15-20cm là vừa, tùy vào sự lựa chọn của gia đình bạn. đầu tiên bạn xếp lá dong theo hình chữ thập, rồi xếp 4 góc của khuôn bánh những chiếc lá dong để khỏi rơi nhân. Sau đó, đổ một lớp gạo nếp vừa đủ, sau khi đổ gạo nếp ta đổ một lớp đỗ xanh và cho thịt lên trên, rồi lại thêm một lớp đỗ, lớp gạo tiếp rồi gấp 4 mép của bốn lá ở góc khuôn bào, sau đó luồn khuôn qua cánh tay và dùng lạt mềm buộc chặt. bật mí với các bạn nếu các bạn muốn bánh trông xanh và dền có thể giã lá giềng trước rồi trộn đều vào gạo nếp. Luộc bánh chưng cần thời gian khoảng từ 6-8 tiếng đồng hồ, làm sao để bánh nhừ và dền. những dịp tết đến, xuân về cảm giác được ngồi gần nồi bánh chưng sôi và ngọn lửa nồng ấm thật tuyệt vời và hạnh phúc cảm giác gia đình trở nên gắn kết và thiêng liêng hơn. Sau khi vớt bánh, dùng khăn nhúng nước lã rửa sạch bên ngoài bánh. Tìm chỗ thoáng mát trong nhà, xếp bánh ra rồi đặt 1 tấm ván lên trên. Tiếp đó cho thêm chậu nước hoặc vật nặng đè lên trên tấm ván để bánh được săn, chắc. Khi bánh nguội hoàn toàn là có thể cắt bánh đem thắp hương trên mâm cỗ ngày Tết rồi. Bánh chưng đã trở thành một trong những nét đặc trung riêng của Việt Nam, đó là bản sắc dân tộc làm nên nét hấp dẫn riêng đối với du khách muốn khám phá ẩm thực Việt Nam. Chúng ta tự hào vì có bánh chúng làm nên giá tri truyền thống trong những dịp tết đến xuân về. Nó gợi nhớ quê hương và những hương vị nồng hậu và dân giã của quê hương.
Bánh chưng đã trở thành hương vị quen thuộc không thể thiếu trong gia đình mỗi người Việt Nam ta trong dịp tết đến, xuân về. Nó gợi về truyền thống văn hóa và những giá trị lịch sử, văn hóa thiêng liêng của cha ông một thuở, làm nên bản sắc và giá trị riêng trong nề văn hóa lâu đời của dân tộc.
Giới thiệu một ngành thủ công mỹ nghệ, đặc sản
Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình – Bài làm 4
Làng tranh Đông Hồ
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh
Đó là những câu ca gợi cảm về một làng nghề truyền thống từ lâu đã được nhiều người biết đến – Làng tranh Đông Hồ.
Đông Hồ, một cái tên làng quen thuộc xinh xắn nằm bên bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bẳc cũ (nay là tỉnh Bac Ninh, cách Hà Nội chừng trên 35 km). Từ lâu tên làng đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam bằng nhữnẹ bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà săc thái dân tộc. Làng tranh Đông Hô xưa còn gọi là làng Mái (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ), là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian. Làng Đông Hồ nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ gần nhất là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phòng) đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km nữa, qua các địa danh khá nôi tiêng của huvện Gia Lâm Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành – Bắc Ninh) là đển phố Hồ – huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng cỏ thẻ đi hết phố Hồ, lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai sẽ có biên chi đường xuống làng Đông Hồ.
Tranh của làng Đông Hồ có từ thời Lê. Ở cái làng nghèo mà hào hoa như làng tranh Đông Hồ trước đây thường truyền nhau câu ca “Lảng Mải có lịch có lề – Có sông tắm mát, có nghề làm tranh”. Qua nhiều thế kỳ, 17 dòne họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Không khí sầm uất vào cừ tháng mười một, tháng chạp, các thuyền từ xứ Đông xứ Đoài ghé bến “ăn tranh”. Người làng tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng phải một sương hai năng tất bật khuya sớm. Thôi thì chỗ này rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ nọ dỡ ván in tranh cọ rửa lau chùi sạch sẽ. Khói đôt than lá tre ẩn hiện la đà trên các ngọn cây. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, sống chủ yếu bằng nghề làm tranh. Nghề làm tranh trong làng rất được trọng vọng. Ai có hoa tay, có thú chơi cầm, kì, thi, họa đều được mọi người vị nể (cũng là theo cái thú tao nhã của nhà nho xưa). Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam. Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Tranh làng Đông Hồ không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người ta dùng ván để in. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu; môi màu dùng một bản, và bản nét (màu đen) in sau cùng. Nhờ cách in này, tranh được “sản xuất” với số lượng lớn và không đòi hỏi kĩ năng cầu kì nhiều. Tuy nhiên vì in trên ván gỗ một cách thủ công, nên tranh bị hạn chế về mặt kích thước, thông thường các tờ tranh không lớn quá 50 cm mồi chiều. Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mâu và bản khắc ván đòi hỏi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kĩ thuật cao. Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in. Giấy dùng in tranh là loại giấy gió mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chắt điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến đã tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dản gian Đông Hồ. Sau khi in thành tranh, kể cả cả lúc tranh khô, người xem vẫn cảm nhận được màu sắc của tranh thật tươi tắn như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng nọ đặt cạnh mảng kia có sự ăn ý hài hoà một cách tự nhiên. Các màu đã hoà quyện in tranh thường lấy từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rôi lây than của nó; màu xanh lây từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy từ thân, rễ cây vang, màu son lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp… Xem tranh dân gian ta thường băt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lí hợp tình. Tranh Đông Hồ còn hấp dẫn bởi vẻ rực rỡ, sắc màu tươi rói của nhừng bộ tứ bình, Thạch Sanh, những gà, lợn, mèo, chuột, ngựa… Một nhà thơ xứ Kinh Bấc đã viết:
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Hồn dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Có thể nói, cái đặc biệt của tranh Đông Hồ là ở chỗ đó. Tranh dân gian Hàng Trống, Kim Hoàng, Huế… không thể có sắc màu muôn hồng ngàn tía của tranh Đông Hồ, cũng không thể có nền giấy điệp quyến rũ đó. Người sành tranh Đông Hồ chính bởi chất dân gian chứa đựng trong tờ tranh nền giấy điệp trắng ngà, lướt nhẹ lượt hoà vàng hay vàng đỏ.
Tranh Đông Hồ gồm các loại: Tranh thờ – bộ ngũ sự; tranh lịch sử: Hai Bà Trưng, Bà Triệu…; truyện tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiêu, Thạch Sanh; phó biến nhất là chúc tụng; ví như tranh Vinh hoa – Phú quý, Nghi xuân, Gà đàn (xem thêm bảy bức tranh gà); tranh sinh hoạt: Đánh ghen, Chăn trâu thổi sáo, Nhà nông, Đám cưới Chuột, Hái dừa… Tranh Đông Hồ có đặc điểm thường là những hình ảnh sung túc như đám cưới chuột, cảnh trai gái cùng nhau hái dừa, cảnh cá chép nhiều màu vẫy đuôi… thể hiện mong muốn về sự sung túc.
Có một điều đặc biệt là người dân làng Hồ chuyên sản xuất tranh nhưnẹ chẳng bao giờ treo trong nhà mà đem bán hoặc cho hết. Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng ba âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyên thông như tê thân, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiêu.
Theo thời gian, làng tranh cùng trải qua biêt bao nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ờ nhà Bác cố thỉnh thoảng lại đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bân khắc tranh nữa! Nhà cụ Lử có bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ lại mà tiếc! Còn nhớ cái thuở Tây càn, dân làng Hồ chạy loạn, binh lửa chiến tranh liên miên và cái khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng và thất lạc khá nhiều. Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn lá dày… cũng không còn nữa. Sau ngày Hòa Bình lập lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ, Chính phủ ta phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin cho khắc lại ván tranh để bảo tồn. Đã có một thời gian tranh dân gian Đông Hồ bị lãng quên nên nghề làm tranh mai một ít nhiều. Không ít hộ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ vàng mã. Nhưng vài năm trở lại đây người Đông Hồ lại hoan hỉ trở lại với nghề tranh nhiều hơn bởi người dân của ta đã lại nhận ra vẻ đẹp trong sự mộc mạc giản dị của tranh Đông Hồ là không thể thiếu được trong cuộc sống thường nhật, nhất là ngày Tết.
Tranh Đông Hồ có một dạo lên đến điểm “cực thịnh”, đã từng sáng giá trong các triển lãm nghệ thuật lớn ở các nước trên thế giói vứi nét vẽ nhuần nhụy, tươi tắn như hồn người đất Việt. Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước yêu thích tranh dân gian Têt Đông Hồ về tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội hoạ, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu vê nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Bà con Việt kiều khi về nước cùng phải tìm mua bằng được những bức tranh làng Hô và cô Tô Nữ dáng quê hương, đê khi ở xa quê trong sương mù Luân Đôn hay cái giá lạnh của Pa-ri hoa lệ. cảm thấy ấm lòng ở chốn tha hương.
Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình – Bài làm 5
Từ một câu ca đến những huyền thoại
“Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi”
(Ca dao)
Chiếc bánh ít lá gai là một đặc trưng của xứ dừa Bình Định. Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc trưng bởi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại…
Theo sự tích xưa, thì sau khi chàng Lang Liêu – con trai của vua Hùng thứ sáu đã thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày, một nàng con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Út ít, vốn rất giỏi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới. Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày, vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út.
Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dáng bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, mộ tthứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như bánh chưng để đạt được ý nghĩa “tuy hai mà một”. Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường với thứ bậc út ít của mình trước các anh chị.
Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa “tuy một mà hai, tuy hai mà một” của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít. Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở thành nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít, rồi thành bánh ít như ngày nay.
Cũng có người giải thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ: Thứ gói lá, thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt, thứ trắng, xanh, đen, thứ nhân dừa, nhân đậu… nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành bánh ít. Có câu ca dao:
Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ít
Trầu có đầy sao gọi trầu không?
Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo môt đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Và thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao:
Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di
Vật vô tri cũng thế huống chi tui với bà.
Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Món quà tuy “ít”, nhưng là “của ít lòng nhiều”, ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người.
Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm hạnh phúc, lo toan, song người con gái vẫn không quên cha mẹ mình, vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh “ít” thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà cho bố mẹ. Nghĩa cử ấy thật không có gì bằng!
Và những cách làm nên tình bánh:
Để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức, sự dẻo dai, bền bỉ và khéo léo.
Đầu tiên là phải chọn nếp để xay (nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công, phải đăng cho ráo nước để được một khối bột dẻo.
Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non (Cây lá gai thường mọc sẵng ở các hàng rào quanh nhà), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon.
Tiếp đến là công đoạn làm nhân “nhưng” bánh. Nhưng bánh ít lá gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quếvà bột va-ni cho thơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm và đãi cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độchín tới mới trộn tiếp đậu xanh. Xào nhưng trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, nhưng có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.
Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải tỉ mỉ. Sau khi đã xào nhưng xong, ngắt một miếng bột nếp tẻ thành bánh mỏng hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏvào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhưng bánh thành một khối tròn. Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí.
Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhân dừa đường hoặc nhân tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; Cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong… và đều làm chín bằng phương pháp hấp như trên, song người An Nhơn, Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhân dừa hoặc nhân đậu xanh gói lá chuối rồi mới đem đi hấp.
Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai. Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác biệt trong văn hoá ẩm thực và văn hoá ứng xử của người Bình Định.
Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon, rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, song người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít lá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con cái, nhất là con gái, như một thứ bảo bối gia truyền, một nét đẹp văn hóa.
Giới thiệu một ngành thủ công mỹ nghệ, đặc sản
Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình – Bài làm 6
Uống chung một chén Bát Tràng
Rồi mai em có sang ngang cũng đành
Những câu thơ nói về một địa danh tại Hà Nội và là niềm tự hào của Việt Nam- làng gốm Bát Tràng. Làng gốm Bát Tràng nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Gia Lâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam.Khi nhắc đến các làng nghề nổi tiếng, bạn không thể nào không nói về làng gốm Bát Tràng. Làng nghề này đã tồn tại ở ven đô Thăng Long khoảng hơn 500 năm nay. Phong cảnh tại làng gốm Bát Tràng cũng hết sức nên thơ, chính vì vậy bạn sẽ có nhiều hoạt động vui chơi khám phá thú vị, đặc biệt là cưỡi xe trâu đi du lịch quanh làng.
Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành là kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác.
Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất sét trắng tại chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đất mới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới.
Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau.
Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối “vuốt tay, be chạch” trên bàn xoay
Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần. Sản phẩm mộc đã định hình cần đem “ủ vóc” và sửa lại cho hoàn chỉnh.
Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu… Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung.
Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả màu ngà, đục. Bát Tràng cũng là làng gốm có các dòng men riêng từ loại men ngọc cùng với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có màu xám nâu.
Sản phẩm gốm Bát Tràng đã được xuất khẩu ở nhiều quốc gia trên thế giới, đem lại nguồn lợi nhuận không nhỏ cho người dân nơi đây. Gốm Bát Tràng còn là một nét đẹp, là kết tinh bàn tay khéo léo và tài hoa của những nghệ nhân nơi đây.
Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình – Bài làm 7
Trong tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”, nhà văn Thạch Lam bằng ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình và tâm hồn cảm nhận mọi “vẻ đẹp man mác của vũ trụ” đã đưa ta đến với thế giới của những món ăn, thức quả: là cốm, là thưởng thức trà, là món phở,…Những thức quà tưởng chừng giản dị ấy, mà mỗi khi ta đọc, lại thấy đó như cả một nghệ thuật. Và nhắc đến phở bò- đó không chỉ là một thức quà trong trang văn của cây bút Tự lực văn đoàn mà còn trở thành một đặc sản, một món ăn ưa thích.
Không biết tự bao giờ, phở đã trở thành món ăn được nhiều người yêu thích mỗi khi đặt chân đến vùng đất Hà thành- vùng đất văn hiến, văn hóa.
Phở bò Hà Nội cũng như phở bò ở nhiều nơi khác, gồm bánh phở, thịt bò, nước phở và một số gia vị khác nhưng bánh phở ở Hà ội sợi nhỏ, ngon, mềm và không khô, cứng như ở nhiều nơi khác. Bánh phở ấy được làm từ gạo chiêm của vụ trước, để hết nhựa rồi mới được đem nghiền trên cối xay đá rồi tráng móng trên nồi nước quạt than củi nên trắng, dai và rất thơm. Muốn vậy, người ta phải lựa chọn được gạo ngon, đạt tiêu chuẩn, khi xay xát phải thật trắng thì bánh phở mới trắng và bong. Khi có đạt tiêu chuẩn, người làm phở cho gạo vào ngâm nước trong khoảng thời gian nhất định để gạo ngấm đủ nước sau đó vớt gạo ra và vo đãi cho sạch nước gạo, gạo được cho vào cối xay bột, bột xay phải mịn thì bánh mới mềm, dai. Bột xay xong thì chuyển sang công đoạn tráng bánh. Bánh phở phải đạt yêu cầu là trắng, mềm, mỏng, dai. Thịt bò được thái mỏng, nhúng và vớt ra ngay, ăn rất mềm mà lại giữ được độ tươi ngon của thịt.
Công đoạn pha chế nước dùng của phở là quan trọng nhất, đó vừa là bí quyết gia truyền của những người thợ là phở, vừa là điều làm nên sự hấp dẫn của món phở. Nước dùng được ninh từ xương ống của bò cùng nhiều gia vị khác như ngò, hành khô, đinh hương. Xương phải được rửa sạch, cạo hết thịt bám vào xương rồi mới cho vào nồi để nấu cùng nước lạnh. Nước thứ nhất đun thì bỏ đi để bớt mùi hôi của xương, nước thứ hai mới được dùng làm nước phở. Khi đun, phải đun lửa thật lớn, khi sôi thì giảm lửa và bắt đầu hớt bọt. Cứ làm như vậy cho đến khi nước phở trong vắt và không còn bọt. Nước phở càng ngọt, càng trong bao nhiêu thì phở càng ngon bấy nhiêu.. Nước phở cần cho thêm ít mắm và ít muối để tạo gia vị.
Trong những chiếc bát sứ trắng bằng thủy tinh, với những cọng phở vừa dai, vừa thơm, vừa ngon, những miếng thịt bò vừa đủ chín mà không quá dai, lại có thêm nước dùng tuyệt hảo mà người thưởng thức chỉ cần thêm chút hành, vài chiếc lá rau thơm, rau mùi hoặc có thể ăn kèm cùng những chiếc quẩy là đã trở thành món ăn vô cùng hấp dẫn. Mà giá của một bát phở Hà Nội lại hợp lý, chỉ khoảng hai mươi lăm đến ba mươi nghìn đồng nên được rất nhiều người ưa chuộng.
Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình – Bài làm 8
Cư dân xứ dừa Bến Tre cư trú trong một hệ sinh thái đặc biệt: có rất nhiều sông rạch với nhiều nguồn lợi thủy hải sản tự nhiên phong phú, với nhiều sản vật tự nhiên vốn chỉ có trong rừng dừa. Và người Bến Tre đã biết khai thác các nguồn sản vật đặc trưng đó để sáng tạo các món ăn, kiểu ăn độc đáo của riêng mình.
Có thể nói cách ăn của người Bến Tre mang sắc thái chung của lối ăn dân dã của cư dân miền Tây Nam bộ: ăn nhiều tôm cá và các thủy hải sản tự nhiên, tận dụng nhiều loại rau thiên nhiên có sẵn trong môi trường. Tuy vậy, cách ăn của người Bến Tre vẫn mang một sắc thái rất riêng. Chuột dừa, một loài vật chuyên phá hại dừa nhưng lại là một món ăn được ưa chuộng. Dưới những mương rạch của rừng dừa còn có nhiều loài tôm cá đặc biệt như cá bống dừa, cua, tôm càng xanh, tép, hến và nhiều loại thủy sản khác. Trong hệ sinh thái rừng dừa còn có loài ong ruồi chuyên lấy mật từ hoa dừa, các loài rắn, rùa, cua đinh, kỳ đà, rắn mối… cũng góp phần làm cho nguồn thực phẩm của người Bến Tre thêm phong phú. Dưới đất trồng dừa còn có nấm mối, các loài rau tự nhiên mọc xen lẫn. Những hệ động thực vật đa dạng trong rừng dừa cũng là thành phần của một số món ăn, đồ uống đặc sắc của người Bến Tre bao đời nay.
Đặc biệt, trong rất nhiều món ăn của người xứ dừa luôn có mặt các dạng nguyên liệu từ cây dừa. Ngày thường cũng như ngày giỗ chạp, lễ, tết, những món “đặc sản” dùng để đãi bạn bè, người thân hay thực khách bốn phương đều không thể thiếu nguyên liệu dừa. Có thể nói qua bao đời vừa tích lũy kinh nghiệm, vừa biến tấu, sáng tạo đến độ nhuần nhuyễn, tài tình.
Trước tiên xin nói đến việc uống dừa. Có lẽ nhờ khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp nên những giống dừa trồng ở Bến Tre như dừa dâu, dừa chùm (trái nhỏ chỉ độ hơn nắm tay đàn ông nhưng rất sai, 30 – 40 trái 1 buồng, nước rất ngọt), dừa dứa (thơm mùi dứa), dừa xiêm xanh, dừa Tam quan … mỗi loại dừa đều có kiểu ngon riêng, người Bến Tre có câu “uống nước dừa xiêm khỏi tiêm thuốc bổ” để ca ngợi quả dừa. Người sành điệu chỉ thích bưng quả dừa mà uống, ai thích ăn cùi thì vạt một mảng vỏ xanh làm thìa mà nạo. Kiểu ăn này làm cho ta cảm nhận được mùi dừa đậm đặc rất khó diễn tả.
Phụ nữ Bến Tre khi mang thai thường chịu khó uống nước dừa hàng ngày vì tin rằng nước dừa sẽ giúp đứa trẻ sinh ra có làn da trắng trẻo, mịn màng. Tất nhiên làn da trẻ phụ thuộc nhiều vào yếu tố di truyền nhưng nước dừa vẫn được các bác sĩ khuyến khích các cô, các bà dùng sẽ rất mát, có lợi cho việc giữ gìn nhan sắc. Ắt hẳn người Việt Nam ai cũng phải công nhận các loại thức uống công nghiệp đắt tiền nhưng chẳng thể sánh với vị nước dừa quê hương, vừa ngon, bổ vừa hợp vệ sinh.
Ngoài công dụng giải khát, nước dừa còn dùng để kho thịt, nấu rất nhiều món ăn như tiềm, ram, ca-ri, rô-ti, làm nước luộc tôm, gà, vịt… Nước dừa cũng được dùng làm giấm ăn, dùng để nhúng bánh tráng khi làm món chả giò (nem rán) để chả có màu vàng ruộm đẹp mắt. Nước dừa pha với rượu áp sanh (một thứ rượu có hương hồi) cho rượu nhẹ độ bớt mà lại ngon hơn.
Ngay cả nước dừa khô có độ ngọt thấp cũng được tận dụng chế biến thành nhiều thứ như thạch dừa bán rất chạy trên thị trường trong và ngoài tỉnh cũng như xuất khẩu, hoặc nấu cô đặc lại thành nước màu (nước hàng) là món gia vị không thể thiếu khi kho nấu. Thịt hoặc cá ướp nước màu dừa có màu vàng ươm rất đẹp còn làm cho món ăn có mùi thơm đậm đặc của nước dừa. Nước màu dừa rất ngon vì thế được nhân dân trong tỉnh ưa chuộng, trở thành một loại “đặc sản”, được dùng làm quà biếu.
Phần cùi dừa có thể chia làm mấy dạng cùi như sau: dừa nạo non (váng cháo), dừa nạo dẻo, dừa cứng cạy, dừa rám và dừa khô. Dừa cứng cạy và dừa rám được dùng làm mứt, kho chung với thịt, hoặc có thể chiên bột giả món tôm chiên, dùng làm món ăn chay, tùy ý thích mà chọn độ cứng của dừa. Khi chọn dừa chỉ cần búng tay vào quả hoặc khẻ lắc quả dừa để chọn đúng “tuổi” quả dừa nào phù hợp với yêu cầu chế biến. Ngoài ra người ta còn nạo thành sợi rắc lên xôi, bắp hầm, món khoai mì quết (giã), làm nhân bánh ít, bánh phu thê, trộn gỏi (nộm), trộn cốm dẹp.
Nước cốt dừa rất đa dụng trong việc chế biến món ăn. Vị béo đậm đà của nước cốt dừa là một hương vị đặc trưng, một trong những nguyên liệu cơ bản. Đây là thành phần không thể thiếu trong rất nhiều món ăn của người Bến Tre. Dừa rám, dừa khô người ta nạo nhuyễn vắt lấy nước cốt, có thể nạo dừa bằng bàn nạo tay hoặc bằng máy, sau đó nhào với nước ấm rồi vắt, ép lấy nước cốt trắng tinh như sữa nên còn được gọi là sữa dừa (tùy theo nhu cầu sử dụng mà lấy nước cốt đặc hay lỏng). Các loại kẹo, bánh, chè, kem cũng như rất nhiều món mặn dùng trong ngày thường hay giỗ chạp, lễ, tết đều không thể thiếu nước cốt dừa.
Khi trái dừa khô mọc mầm, bên trong hình thành một cái “phổi” dùng để hút nước nuôi mầm gọi là mộng dừa. Mộng dừa xốp, ngọt, dùng để ăn chơi hay xào tép đều ngon. Ngoài ra còn có món đuông dừa thơm và bổ, là món ăn ngày xưa dùng để tiến vua. Đuông dừa là một loại ấu trùng của loài bọ dừa cánh cứng sống trong thân cây dừa, người ta bổ thân cây dừa để lấy con ấu trùng này chế biến thành một món ăn đặc biệt.
Rượu dừa là thứ rượu được chế một cách đơn giản và độc đáo. Người ta trèo lên cây dừa, chọn buồng dừa nạo, đục cuống nhét viên men rượu vào, khoảng 10 ngày sau nước dừa lên men biến thành một loại rượu nhẹ uống rất ngon.
Nguyên liệu dừa sử dụng trong các món ăn có thể chia 4 nhóm như sau:
1/ Nhóm cho nước cốt trực tiếp vào trong thức ăn khi nấu: cháo dừa, tép rang dừa, mắm kho dừa, khô cá biển kho nước cốt dừa, tương hột kho nước cốt dừa, ốc len xào dừa, nghêu luộc nước cốt dừa, các loại chè khoai, chè đỗ, bánh tét.
2/ Nhóm dùng nước cốt đã nấu chín với bột cho sánh lại để ăn kèm với chuối nướng, bánh bò, bánh cục…
3/ Nhóm dùng nước dừa tươi để nấu như cơm dừa, tiềm, thịt kho tàu…
4/ Nhóm dùng cùi dừa nạo thành sợi hay nạo nhuyễn để trộn với các nguyên liệu khác như bánh ít, bánh dừa, cốm dẹp…
Các món ăn được chế biến từ những sản vật trong hệ sinh thái rừng dừa – sông nước có thể chia làm 3 nhóm:
1/ Nhóm động vật: chuột dừa, cúm núm quay nước dừa; rắn mối nấu cháo đậu xanh hay xào sả ớt; rắn nước bằm xúc bánh tráng; rắn bông súng hầm sả, nước dừa; ong vò vẽ non nấu cháo đậu xanh; ong vò vẽ già chiên giòn; dơi quạ quay chảo; dơi sen luộc chấm muối tiêu chanh; ếch xào lá cách.
2/ Nhóm thủy hải sản: cá bống dừa kho nước cốt, cá lòng tong chiên, cá lóc nướng trui, tôm càng xanh luộc nước dừa…
3/ Nhóm thực vật: nấm mối nướng, nấm mối xào lá cách, củ hủ dừa hầm giò heo…Qua một số món ăn đã nêu ta thấy cư dân xứ dừa đã vận dụng một cách tinh tế, khéo léo và hợp lý những sản vật, nguyên liệu sẵn có để chế biến thành những món ăn độc đáo, mang hương vị riêng, trở thành đặc sản của quê dừa. Văn hóa ẩm thực Bến Tre gắn liền với cây dừa, không thể tách rời, người ta thường có cách nói ví von “người Bến Tre lớn lên với hai dòng sữa: sữa mẹ yêu thương và sữa dừa quê hương”.
Hi vọng với những bài văn mẫuGiới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (đặc sản, nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mìnhcũng đã giúp cho các em có được những cách viết sáng tạo, đa dạng nhất để đạt được điểm cao nhất. Chúc các em học thật tốt!
Minh Nguyệt